– Tảo và vi khuẩn (hệ vi sinh vật) rất quan trọng trong kiểm soát chất lượng nước.Tảo cung cấp 90% ôxy trong nước và là thức ăn cho tôm nhỏ. Vi khuẩn có vai trò phân hủy chất thải và thức ăn thừa, khử khí độc, tái tạo protein từ nitơ thải. Màu nước là màu của tảo và vi khuẩn. Màu xanh đặc trưng cho tảo. Màu nâu đặc trưng cho vi khuẩn. Màu bã trà là màu của hỗn hợp tảo và vi khuẩn.
– Tạo màu nước chính là gây dựng hệ vi sinh có ích. Hệ vi sinhhỗn hợp tảo và vi sinh vật làm nước có màu bã trà, màu được người nuôi tôm ưa thích. Hệ này rấtổn định,đảm bảo nước có chất lượng tốt.
– Tảo không được quá dày, cũng không được quá thưa. Nếu tảo thưa, nước trong, tảo hại tầng đáy sẽ dễ phát triển. Ngước lại, nếu tảo dày thì có thể thiếu ôxy về đêm.
Mật độ tảo liên quan trực tiếp với độ trong. Mật độ tảo tối ưu cho nước nuôi tôm ứng với độ trong 30 – 35 cm.
– Để kiểm tra độ trong, ta dùng đĩa Sechi.
– Đĩa Sechi là đĩa tròn đường kính 20 – 25 cm, mặt trên chia thành những rẻ quạt đen trắng, phía dưới gắn một vật nặng, phía trên gắn thước dây.
– Thả đĩa xuống nước và cho đĩa từ từ chìm xuống cho đến khi nào không còn phân biệt được ranh giới giữa hai vùng trắng đen nữa thì đọc chỉ số trên thước dây.
1. Gây tảo bằng phân bón hóa học N-P-K
– Bón phân cần tiến hành 1-2 tuần trước khi thả giống.
Phân bón gồm đạm (nitơ), lân (phốtpho), kali, và các loại phân vi lượng. Các loại phân này có thể được trộn lẫn thành phân hỗn hợp, và có thể đi kèm với cám, bột, đường.
– Phân bón có thể ở dạng hạt, hay nước. Phân dạng hạt khi rải sẽ rơi xuống đáy ao và tan từ từ, nhưng phần lớn phân phốt phát sẽ bị bùn đáy hấp thu nên khó tan trở vào nước. Phân bón ở dạng lỏng có hiệu quả hơn vì tan ngay, do đó nên hòa tan phân vào nước rồi phun xuống ao. Với phân bón dạng lỏng thì cũng phải pha loãng nhiều lần rồi mới phun.
– Hàm lượng đạm, lân và kali trong một số phân bón phổ biến được cho trong Bảng. Dựa trên hàm lượng này để chọn loại phân sao cho tiết kiệm chi phí và tính được lượng phân bón cần dùng.
– Phân NPK 5-20-5 có nghĩa là hàm lượng N là 5%, P2O5 là 20%, K2O là 5%.
– Với ao nuôi tôm thì nên dùng các loại phân nitơ, phốtpho và kali riêng biệt để dễ tính.
– Với các ao nước ngọt thì lượng phân bón là 2 – 8 kg P2O5/ha và 1- 2 kg N/ha. Lựa chọn dễ nhất là DAP (18-47-0) với mật độ bón 10 – 20 kg/ha trong khoảng thời gian 2 – 4 tuần. Lượng tảo sẽ tăng 2 – 10 lần so với ao không được bón phân. Tuy nhiên chú ý không được bón nhiều, vì sự bùng phát tảo sẽ làm nước thiếu ôxy về đêm.
– Với nước lợ thì cần nitơ nhiều hơn, N:P = 2:1, hay N:P2O5 = 2:2,3. Lượng nitơ bón là 2 – 4 kg/ha/ngày, còn P2O5 sẽ là 2,3 – 4,6 kg/ha/ngày. Lượng Nitơ 2 – 4 kg/ha/ngày sẽ tương đương với 4,5 – 9 kg urê/ha/ngày hay 12,5 – 25 kg NaNO3/ha/ngày . P2O5 2,3 – 4,6 kg/ha tương đương với 5 – 10 kg TSP, hay 14,5 – 29 kg SSP.
Lưu ý khi bón các loại phân có chứa amôniac và urê khi trong ao đã có con nuôi, vì amôniac sinh ra sẽ làm con nuôi mệt mỏi, chậm lớn.
– Bón phân gây tảo khuê (tảo silic, diatom): Một số nghiên cứu cho thấy tảo khuê nâu là nguồn thức ăn rất tốt cho tôm. Tỉ lệ N:P tối ưu cho sự phát triển của tảo khuê là 20:1. Tảo khuê ưa nitrat hơn là amôniac. Lượng NaNO3 bón là 10 – 20 kg/ha/ngày. Nếu hàm lượng silic trong nước dưới 1 mg/l thì cần bón thêm silicat natri (Na2SiO3) 50 – 100 kg/ha/ngày.
– Sắt thúc đẩy sự phát triển của tảo. Tuy nhiên muối sắt dễ bị kết tủa nên sắt ở dạng phức sẽ có tác dụng tốt hơn. Do đặc điểm địa chất nên đất vùng đồng bằng sông Cửu long chứa khá nhiều sắt, việc rải EDTA là nhằm giữ sắt trong nước cho tảo phát triển.
– Tuy nhiên, tảo nuôi bằng các phân bón vô cơ kém bền; tảo dễ sụp. Ngoài ra, nếu dùng các loại phân chứa amonia sẽ phải chờ cho đến khi hết amoniac, vì amôniac là chất độc cho tôm.
Phân đạm làm tăng nồng độ khí độc amôniac trong nước
– Urê và các loại phân chứa amoni làm tăng TAN (amôniac tổng). Amôniac là vấn đề quan ngại nhất trong ao tôm. Nồng độ amôniac tự do trên 0,1 mg/l (ứng với TAN = 4 mg/l ở pH 7,5, 1 mg/l ở pH 8, 0,5 mg/l ở pH 8,5…) đã làm giảm sự tăng trưởng của tôm. Nếu bón phân trong lúc ao đã có tôm thì cần tính sao cho lượng amôniac cho vào không quá ngưỡng TAN.
Ví dụ: Tại pH 8, ngưỡng TAN là 0,5 mg/l (7,5 kg/ha, ao sâu 1,5 m). Như vậy lượng urê bón vào không được quá 13,2 kg/ha.
2. Gây tảo bằng phân hữu cơ
– Phân hữu cơ như phân xanh, bột đậu nành, cám gạo, bột cá thúc đẩy nhanh sự phát triển của tảo. Thông thường rải với mật độ 25 – 50 kg/ha/ngày thì tảo sẽ bùng phát sau 4-5 ngày. Không nên dùng phân chuồng, phân gà; vì các loại phân này dễ mang theo vi khuẩn gây bệnh.
– Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, cám gạo hay cám gạo trộn bột gạo với tỉ lệ 1:1 tốt nhất để gây màu nước. Nước sẽ có màu bã trà cho thấy cám gạo thúc đẩy hệ vi sinh hỗn hợp tảo – vi khuẩn..
3. Tảo, vi sinh và tôm
– Rất khó kiểm soát loại tảo sẽ phát triển. Hai ao cạnh nhau, cùng một chế độ chăm sóc, nhưng tảo và vi sinh có thể khác nhau cả về số lượng lẫn chủng loại do mầm tảo và vi khuẩn trong hai ao có thể khác nhau. Tốt nhất là lấy một phần nước ở ao đã có màu đẹp, cho vào ao mới và rải cám để thúc đẩy tảo và vi sinh có lợi phát triển.
– Sau hai – bốn tuần, hệ tảo – vi khuẩn đã phát triển, nước đã có màu tốt, (vàng nâu hoặc nâu lục), độ trong đạt 25-40 cm thì thả tôm giống. Việc bón phân không cần thiết nữa, vì chất thải và thức ăn thừa là dưỡng chất cho tảo và vi sinh phát triển.
– Tôm nhỏ chủ yếu ăn phiêu sinh. Tôm lớn dần, cần nhiều thức ăn hơn nên khoảng 7-10 ngày sau thì tảo trong ao có thể cạn dần, khi đó cần bổ xung cám để cám ổn định màu nước, đảm bảo không bị gián đoạn nguồn thức ăn tự nhiên. Trong vòng 20-30 ngày đầu không cần cho ăn thêm thức ăn công nghiệp.
– Trong trường hợp mật độ thả cao 50 con/m2 trở lên, nguồn thức ăn tự nhiên có thể không đủ, cần cho thêm thức ăn công nghiệp thích hợp dành cho tôm giống. Đây cũng là dưỡng chất cho tảo và vi khuẩn phát triển, tạo nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm.
– Giai đoạn đầu không được cho tôm ăn thức ăn tươi sống như cá, nhuyễn thể, trứng nghiền vì tôm con chưa ăn được, mà còn tạo điều kiện cho vi sinh vật có hại phát triển, vô tình phá vỡ cơ cấu sinh thái nước ao.
4. Vai trò của Sắt
– Sắt rất cần cho sự phát triển của tảo. Tuy nhiên sắt trong nước rất thấp. Nước biển và nước lợ chứa sắt dưới 0,010 mg/l. Các phân bón có ôxit sắt hay muối sắt, nhưng do ôxit sắt khó tan và muối sắt dần dần kết tủa xuống đáy, do đó cần đánh EDTA để giữ sắt tan trong nước.
– Các kết tủa sắt dưới đáy có tác dụng tốt. Chính sắt sẽ hấp thu H2S, tạo thành kết tủa, nên làm giảm khí độc sunphua trong nước.
(Nguồn: http://www.binhlan.com)