Bổ sung nucleotide (guanosine monophosphate) vào thức ăn giúp tôm thẻ tăng trưởng tốt, tăng tỉ lệ sống, tăng hiệu quả sử dụng thức ăn, kích thích miễn dịch, qua đó tăng khả năng chống chịu stress với khí độc amoniac.
Nucleotides là một hợp chất hóa học gồm có 3 phần chính: một nhóm heterocyclic, nhóm đường, và một hay nhiều nhóm phosphate. Nucleotides là chất đóng vai trò quan trọng trong quá trình trao đổi chất chẳng hạn như tổng hợp DNA và RNA, kích hoạt sinh tổng hợp, chuyển hóa năng lượng và phát tín hiệu. Chính vì vậy, nucleotides mang lại các tác dụng như tăng cường miễn dịch, giảm thiểu stress và chống chọi lại mầm bệnh.
Hiện nay, do sản lượng bột cá ngày càng khan hiếm, giá cả tăng cao, nên nhiều nghiên cứu tiến hành để sử dụng bột đậu nành thay thế bột cá trong quá trình nuôi thủy sản vì chúng đảm bảo cân bằng acid amin, sẵn có và giá thấp. Tuy nhiên, chế độ ăn kiêng với mức thay thế bột đậu nành cao lại cho thấy hiệu suất tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn thấp hơn, ảnh hưởng đến quá trình miễn dịch và thay đổi cộng đồng vi sinh vật đường ruột. Do đó, để giảm thiểu thành phần bột cá trong khẩu phần ăn thì việc bổ sung nucleotides vào khẩu phần ăn là cần thiết.
Nghiên cứu cho thấy rằng tôm thẻ chân trắng cho ăn khẩu phần với 2000 hoặc 5000mg/kg nucleotides có trọng lượng thu hoạch hơn so với chế độ ăn cơ bản (36,5% bột cá) mà không có bổ sung nucleotide. Hơn nữa, kết quả là 5000mg/kg nucleotide trong chế độ ăn uống trong trọng lượng thu hoạch cao hơn đáng kể so với mức 2000mg/kg. Tuy nhiên, lại không có sự khác biệt đáng kể với chế độ ăn cho ăn (46% bột cá) với mức độ nucleotides được phân loại (2000, 4000 và 6000 mg/kg). Cả hai nghiên cứu trên đều sử dụng cá với hàm lượng cao, nên nghiên cứu hiện tại sẽ tìm hiểu tác động của nucleotide đối với hiệu suất tăng trưởng, đáp ứng miễn dịch, kháng bệnh và hình thái đường ruột của tôm thẻ được nuôi bằng chế độ ăn ít bột cá.
Thử nghiệm này được thực hiện để đánh giá tác động của nucleotide đối với sự tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng và các phản ứng miễn dịch, trao đổi chất khi tiếp xúc với căng thẳng amoniac.
Chế độ ăn thử nghiệm như sau: chế độ ăn ít bột cá và 4 chế độ ăn thử nghiệm ăn ít bột cá được bổ sung các loại nucleotides khác nhau như sau:
- 0,1% guanosine monophosphate (GMP)
- 0,1% inosine monophosphate (IMP)
- 0,1% hỗn hợp GMP và IMP
- 0,1% hỗn hợp GMP, IMP, uridine monophosphate (UMP) và cytidine monophosphate (CMP).
Các mẫu tôm (trọng lượng cơ thể ban đầu: 0,99 ± 0,01 g) được phân ngẫu nhiên thành 5 nhóm và cho ăn 4 lần mỗi ngày trong 8 tuần. Tôm sau đó đã được thử thách với 70mg/L ammonia (LC50) trong 10 ngày và kiểm tra các chỉ tiêu miễn dịch và tỉ lệ sống.
Kết quả cho thấy hiệu suất tăng trưởng cao nhất được ghi nhận ở chế độ ăn bổ sung Guanosine monophosphate (p <0,05). Trong thử nghiệm thử thách amoniac, tỷ lệ sống cao nhất cũng ghi nhận ở tôm được cho ăn chế độ ăn bổ sung Guanosine monophosphate so với những những nghiệm thức khác.
Nồng độ protein, glucose và cholesterol trong huyết tương tăng trong tất cả các phương bổ sung nucleotides trong khi mức chất béo trung tính giảm sau thử thách với amoniac. Mức độ Cortisol phục hồi vào ngày thứ 10 sau thử thách. Tôm được nuôi bằng chế độ ăn nucleotide cho thấy mức độ protein và glucose cao hơn so với nhóm đối chứng.
Tóm lại, nucleotide (đặc biệt là guanosine monophosphate) khi được bổ sung vào chế độ ăn sẽ giúp tăng trưởng nhanh, cải thiện khả năng chống stress và tăng cường miễn dịch ở tôm thẻ dưới tác động của amoniac. Bổ sung Guanosine monophosphate 0,1% đem lại hiệu quả tăng trưởng và tỉ lệ sống cao nhất.
Theo : Như Huỳnh / Tép Bạc